Thần tích: Nước Nam thời cổ cũng từng có người bạch nhật phi thăng

“Bạch nhật phi thăng” là một cụm từ thời cổ, được nhắc tới trong những sách tu luyện của Đạo gia như “Thần Tiên truyện”, dùng để chỉ những người phi thường có khả năng bay lên không trung hoặc bay về Trời. Đây thường là người tu luyện đã đắc Đạo hoặc những người được Thiên Thượng phái đến thế gian trở về sau khi hoàn thành sứ mệnh của mình. “Bạch nhật phi thăng” không chỉ xuất hiện nhiều ở Trung Quốc, mà còn ở cả Việt Nam…

 

Hiện tượng “bạch nhật phi thăng” xảy ra rất thông thường vào thời thượng cổ, nhưng sau này càng ngày càng hiếm thấy, đến thời cận đại thì hầu như không còn ai nhìn thấy nữa. (Ảnh qua Nguyenuoc)

Hiện tượng “bạch nhật phi thăng” xảy ra rất thông thường vào thời thượng cổ, nhưng sau này càng ngày càng hiếm thấy, đến thời cận đại thì hầu như không còn ai nhìn thấy nữa. (Ảnh qua Nguyenuoc)

Theo các ghi chép, hiện tượng “bạch nhật phi thăng” xảy ra rất thông thường vào thời thượng cổ, nhưng sau này càng ngày càng hiếm thấy, đến thời cận đại thì hầu như không còn ai nhìn thấy nữa. 

Trong Thần Tiên Truyện có ghi lại lời nói của Âm Trường Sinh, một người tu hành đắc Đạo vào thời Hán, có thể bạch nhật phi thăng: “Thời thượng cổ những người đắc Đạo thành Tiên nhiều vô số, không kể hết. Nhưng từ lúc triều Hán hưng khởi tới nay, thành Tiên có bốn mươi lăm người, tính cả ta nữa là bốn mươi sáu người. Trong đó hai mươi người lấy “cái chết” là phương thức thăng thiên, số còn lại đều bạch nhật phi thăng.”

Có thể thấy rằng xã hội càng phát triển, con người càng hiện đại hóa, thì số người tin vào Thần Tiên và tu luyện càng ngày càng ít đi, tư tưởng của con người cũng phức tạp lên nhiều chứ không còn đơn thuần chất phát như thời cổ nữa, vì vậy mà những người có thể thành Tiên hoặc bạch nhật phi thăng càng ngày càng hiếm thấy, thậm chí không còn thấy nữa. 

Ngày nay người ta chỉ còn cho rằng chúng là sản phẩm tưởng tượng của người xưa chứ không có thật. Tuy nhiên một điều khó mà chối cãi được là trong các ghi chép cổ đại hoặc Thần thoại khắp nơi trên thế giới, không chỉ Trung Quốc, mà còn cả ở phương Tây và những nơi khác, đều có miêu tả ít nhiều về hiện tượng “bạch nhật phi thăng” của những bậc tu hành hoặc người có năng lực bất phàm. 

Do văn hóa bất đồng nên sự miêu tả là khác nhau, chi tiết sự việc cũng khác nhau, nhưng đều chung một niềm tin là con người thật sự có thể bay lên không trung bằng năng lực của chính mình. Sự trùng hợp này biết đâu không phải là ngẫu nhiên?

Ở nước Việt thời thượng cổ, giai đoạn mà các vua Hùng Vương còn trị vì đất nước, những thần tích xảy ra rất nhiều và đều được ghi chép hoặc lưu truyền lại. Dưới đây là hai câu chuyện có liên quan đến “bạch nhật phi thăng” đã rất quen thuộc với dân Việt nhưng thường ít người để ý. Hai câu chuyện này được lấy trong cuốn Thần thoại “Lĩnh Nam Chích Quái”.

Truyện Đổng Thiên Vương (Thánh Gióng)

Vua Hùng Vương thứ sáu vì nước giàu mạnh nên sinh tâm kiêu ngạo, bởi cớ ấy mà vua nhà Ân sang xâm lược Văn Lang. Hùng Vương biết lỗi nên lập đàn sám hối với Trời, xin Long Quân giúp cách phá giặc. 

Hôm sau liền xuất hiện một cụ già tướng mạo phi phàm, đến nói với vua: “Ba năm nữa giặc phương Bắc sẽ tràn sang, cần phải nghiêm chỉnh khí giới và sai người đi tìm bậc kỳ tài trong thiên hạ, thì mới phá được giặc.” Cụ già nói xong liền biến mất, Hùng Vương biết là Long Quân hiển linh nên dập đầu lạy tạ.

Tượng Vua Hùng trên Phú Thọ

Hùng Vương vì sinh tâm kiêu ngạo nên gặp họa xâm lược, nhưng khi sám hối với Trời thì Thần tích liền triển hiện

Ba năm sau quả nhiên giặc Ân tới, vua theo lời dặn sai sứ giả đi khắp nơi tìm bậc kỳ tài. Khi tới làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, Bắc Ninh, có một bé trai con của phú ông sinh vào mùng 7 tháng Giêng, ba tuổi rồi vẫn không dậy được, không biết nói cười. Khi nghe tiếng sứ giả loa tìm người tài, đứa bé chợt bật dậy nói với mẹ: “Mẹ gọi sứ giả đến đây.”

Người mẹ kinh ngạc đi mời sứ giả đến, đứa bé liền nói: “Mau về tâu với vua rèn một con ngựa sắt cao mười tám thước, một thanh kiếm sắt dài bảy thước, một roi sắt và một nón sắt. Ta cưỡi ngựa đội nón ra đánh, giặc tất phải kinh bại.” 

Sứ giả vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, vội về tâu lại. Hùng Vương nghe xong liền mừng rỡ sai người đi rèn ngựa, kiếm, roi và nón như đứa bé yêu cầu. Quần thần hỏi: “Chỉ một đứa bé làm sao phá được giặc?” Hùng Vương nói: “Ngày trước Long Quân đã nói rồi, chúng ta còn nghi ngờ sao được!”

Đứa bé lớn rất nhanh, ăn uống tốn rất nhiều, cha mẹ không đủ của cải để nuôi, hàng xóm hay tin liền phụ góp trâu gạo và hoa quả. Khi quân nhà Ân tới chân núi Trâu Sơn ở Vũ Ninh, đứa bé duỗi chân đứng dậy cao hơn mười thước, rút kiếm thét lớn: “Ta là thiên tướng đây!” rồi đội nón cưỡi ngựa xông trận. 

Ngựa chồm lên, hí dài một tiếng mà phi như bay, nháy mắt đã tới trước quân vua, vỗ kiếm đi trước, quan quân đều theo sau, tiến sát đồn giặc. Quân giặc bỏ chạy, còn lại tên nào đều la bái kêu lạy thiên tướng rồi cùng đến hàng phục. Ân Vương bỏ mình ở trong trận. 

Quân giặc tan rồi, khi đến đất Sóc Sơn huyện Kim Hoa, thiên tướng cởi bỏ áo mũ, rồi cưỡi ngựa bay lên trời. Hôm đó là ngày mùng 9 tháng 4, còn để vết tích ở hòn đá trên núi. Hùng Vương nhớ công ơn đó mới tôn là Phù Đổng Thiên Vương, lập miếu thờ ở nhà cũ trong làng, lại ban cho một ngàn mẫu ruộng, sớm hôm hương lửa.

Phù Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa bay về Trời.

Phù Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa bay về Trời.

Truyện Nhất Dạ Trạch (Tiên Dung – Chử Đồng Tử)

Hùng Vương đời thứ ba sinh được một nàng Mỵ Nương, đặt tên là Tiên Dung, đến tuổi 18 dung nhan xinh đẹp, nhưng không muốn lấy chồng, chỉ thích chu du vui chơi khắp nơi trong thiên hạ. Nhà vua cũng không cấm đoán được. Mỗi năm vào khoảng tháng Hai tháng Ba Tiên Dung lại sắm sửa thuyền bè chèo chơi ở ngoài biển, vui quên trở về.

Ở làng Chử Xá ven sông, có người dân tên là Chử Vi Vân sinh được một người con trai là Chử Đồng Tử. Cha từ, con hiếu, nhà gặp hỏa hoạn, của cải sạch không, chỉ còn lại một khố vải duy nhất, cha con ra vào thay nhau mà mặc. 

Tới lúc cha già lâm chung, dặn con cứ để trần cha mà chôn, giữ lại khố mà mặc. Chử Đồng Tử vì thương cha nên không nỡ làm theo, đem khố an táng cùng cha, còn mình đành chịu trần truồng đói rét. Chàng ở bên sông cầm cần câu cá; hễ nhìn thấy có thuyền buôn qua lại thì đứng ở dưới nước mà xin ăn.

Bất ngờ thuyền của Tiên Dung xốc tới, chiêng trống nhã nhạc, cờ lọng huy hoàng, kẻ hầu người hạ rất đông. Đồng Tử rất kinh sợ, không biết chạy trốn đi đâu. Trên bãi cát có khóm lau sậy, Đồng Tử bèn nấp trong đó, bới cát thành lỗ nằm xuống phủ cát lên mình. 

Lát sau, Tiên Dung cắm thuyền dạo chơi trên bãi cát, ra lệnh đào hố, lấy lau vây màn làm chỗ tắm. Tiên Dung vào màn, cởi áo dội nước, cát trôi mất để lộ ra thân hình của Chử Đồng Tử. Tiên Dung hổ thẹn hồi lâu, thấy là con trai bèn nói: “Ta vốn không muốn lấy chồng, nay lại gặp ngươi, cùng ở trần với nhau trong một hố, đó chính là do trời xui khiến vậy. Ngươi hãy mau đứng dậy tắm rửa”

Tiên Dung ban cho quần áo mặc rồi cùng xuống thuyền mở tiệc vui chơi. Người trong thuyền đều cho đó là cuộc giai ngộ xưa nay chưa từng có. Đồng Tử kể lại tình cảnh của mình, Tiên Dung muốn cùng chàng nên đạo vợ chồng. Đồng Tử cố từ chối, song Tiên Dung nói rằng: “Đây do Trời chắp nối, sao còn chối từ?”

Người theo hầu vội về tâu lại với Hùng Vương. Vua giận nói: “Tiên Dung không thiết tới danh tiết, không màng tới của cải, ngao du bên ngoài, hạ mình lấy kẻ nghèo khổ, còn mặt mũi nào trông thấy ta nữa? Từ nay cấm không cho Tiên Dung trở về”

Tiên Dung nghe sợ không dám về, bèn cùng Đồng Tử mở chợ búa, lập phố xá, cùng dân buôn bán, dần dần trở thành phố chợ lớn. Thương nhân nước ngoài tới lui buôn bán, kính nể tôn Tiên Dung và Chử Đồng Tử làm chủ. Hai người trở nên rất giàu có. 

Về sau Chử Đồng Tử lên núi Quỳnh Vi gặp vị sư là Phu Quang, truyền cho chàng phép tu Đạo, lại tặng một thiền trượng và một nón thiêng. Đồng Tử trở về nhà liền truyền Đạo lại cho vợ, hai người cùng bỏ lại chợ búa và cơ nghiệp, lên núi để chuyên tâm tu Đạo.

hử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung. (Ảnh qua Songdep)

Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung. (Ảnh qua Songdep)

Sau này hai người đi đường gặp lúc mưa lớn, cắm thiền trượng che nón mà trú thân, liền hiện ra lầu vàng điện ngọc, vàng bạc châu báu, kẻ hầu người hạ không sao kể siết. Người dân trông thấy vừa lạ lùng vừa bái phục, liền kéo đến xin làm bề tôi, lập thành nước riêng.

Hùng Vương nghe tin, cho rằng con gái làm loạn, bèn sai quân tới đánh. Vợ chồng Tiên Dung lúc này đều đã ngộ Đạo, Tiên Dung cười bảo: “Điều đó ta không muốn làm, do trời định đó thôi, sống chết tại trời, há đâu dám chống lại cha, chỉ xin thuận theo chính Đạo, để mặc cho cha chém giết”

Khi quan quân tới, đóng trại ở bãi Tự Nhiên, chỉ còn cách con sông lớn thì trời tối không kịp tiến quân. Nửa đêm, bỗng nhiên gió lớn nổi lên, cát bay, cây đổ, quan quân hỗn loạn. Vợ chồng Tiên Dung cùng thủ hạ, thành quách phút chốc bay lên trời. Đất chỗ đó sụt xuống thành cái đầm lớn. 

Ngày hôm sau, dân chúng không thấy thành quách đâu cả, đều cho là linh dị. Về sau, dân lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, gọi đầm là đầm Nhất Dạ.

***

Phù Đổng Thiên Vương vốn là thiên tướng trên Trời, nhận lệnh đến giúp nước Nam đánh tan xâm lược, sau khi hoàn thành sứ mệnh liền cưỡi ngựa bay về Trời. Còn Chử Đồng Tử và Tiên Dung vốn do vận mệnh an bài mà kết thành vợ chồng, cùng nhau tu hành đắc Đạo, sau cùng với thành quách nhà cửa tất cả đều bay lên Trời. Đây chính là hai thần tích của nước Nam ta về hiện tượng “bạch nhật phi thăng” – con người trở thành Thần và bay lên Thiên Thượng.

Các bài viết khác